TÓM TẮT
Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác đến từ nhiều khu vực trên thế giới. Việc ký kết các hiệp định thương mại tự do đã mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển, đồng thời cũng đặt Việt Nam trước nhiều khó khăn, thách thức. Bài viết sẽ nghiên cứu tác động của các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết của Việt Nam thông qua việc tìm hiểu tình hình các hiệp định thương mại tự do đã ký kết của Việt Nam, các cơ hội và thách thức của các FTA đã ký kết này đối với Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để Việt Nam có thể tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức mà các FTA này mang lại.
Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do, tác động, kinh tế, Việt Nam
Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement – FTA) là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản đối với phần lớn hoạt động thương mại giữa các thành viên với nhau. Các thành viên tiến hành theo lộ trình việc cắt và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do, tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.
Bốn nội dung chính mà FTA thường đề cập đến bao gồm: Quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan; Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan và Quy định về quy tắc xuất xứ.
Hiệp định thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam ký kết là AFTA, có hiệu lực từ năm 1993 với đối tác là các quốc gia trong ASEAN. Đến hết tháng 01/2022, Việt Nam đã có 15 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã ký kết có hiệu lực và 02 FTA đang đàm phán, với tổng cộng 53 nền đối tác kinh tế, chiếm phần lớn thương mại quốc tế của Việt Nam. Tất cả các FTA này đều có các cam kết ưu đãi, xóa bỏ thuế quan đối với phần lớn các loại hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các thị trường đối tác. Trong số đó, nổi bật nhất là các FTA thế hệ mới, gồm: Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA); Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… Tính đến hiện nay, trong quá trình đàm phán và ký kết FTA, Việt Nam đã có quan hệ với các đối tác tại 5 khu vực thị trường lớn nhất thế giới: Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Châu Âu (bao gồm cả Đông Âu và Tây Âu), Châu Mỹ (bao gồm cả Bắc Mỹ và Nam Mỹ) và châu Á Thái Bình Dương.
Việc ký kết các hiệp định thương mại tự do với các đối tác trên thế giới đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các đối tác, mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu của Việt Nam, thu hút được nguồn vốn FDI từ các quốc gia thành viên. Các FTA góp phần tích cực trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý, tạo môi trường đầy đủ, toàn diện, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia liên tục được rà soát sửa đổi, phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế. Các FTA cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch kinh tế, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho xã hội; thúc đẩy hợp tác bảo vệ môi trường, giữ gìn và cân bằng các nguồn tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, giải quyết các vấn đề gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các FTA cũng mang lại cho Việt Nam một số thách thức như phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật nội địa trong những lĩnh vực liên quan cho phù hợp với cam kết chung; gặp khó khăn trong việc thực hiện quy tắc xuất xứ của các FTA để được hưởng mức thuế quan ưu đãi; các rào cản kỹ thuật đối với thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ từ phía các đối tác; sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ của các đối tác FTA… Tuy vậy, dù cơ hội hay thách thức, đó đều là động lực để Việt Nam nghiên cứu và tìm ra các giải pháp để có thể tận dụng tối đa các ưu đãi mà các FTA mang lại và phát triển nền kinh tế.
3.1. Cơ hội
Thứ nhất, cam kết về thương mại hàng hóa trong các FTA giúp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các đối tác, mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Với 15 FTA đã ký kết, Việt Nam có quan hệ với nhiều đối tác tại 5 khu vực thị trường lớn nhất thế giới: Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Châu Âu (bao gồm cả Đông Âu và Tây Âu), Châu Mỹ (bao gồm cả Bắc Mỹ và Nam Mỹ) và châu Á Thái Bình Dương. Các FTA đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, như: EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia... Ngành mũi nhọn của Việt Nam như: gạo, cà phê, mật ong, chăn nuôi, hoa quả, thủy sản, ngành dệt may, giày da, đồ gỗ, tin học, ô tô, hóa dầu… đều được hưởng nhiều ưu đãi theo lộ trình đã cam kết giữa Việt Nam và các đối tác. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam trong các năm vừa qua như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, đều là các đối tác đã ký kết FTA với Việt Nam.
Thứ hai, các FTA góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam theo hướng tích cực. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô, sơ chế; tăng tỷ trọng hàng công nghệ chế biến, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản; tăng tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khu vực kinh tế tư nhân, giảm tỷ trọng xuất khẩu khu vực kinh tế nhà nước. Theo Tổng cục thống kê, tỉ trọng giá trị xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp của Việt Nam tăng từ mức 71,1% kim ngạch xuất khẩu năm 2010, lên mức 85,4% năm 2015 và 89,8% năm 2020. Trong khi đó, tỉ trọng nhóm hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu đã giảm mạnh, từ 22,7% năm 2010 xuống 14,7% năm 2015 và 10,2% năm 2020. Tỉ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng lên, chủ yếu do tăng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện, trong khi tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp giảm. Đây là những xu hướng chuyển dịch tích cực, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Thứ ba, những cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh vực cụ thể cũng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội được tiếp cận với nguồn máy móc, thiết bị, công nghệ, kỹ thuật cao từ các nước tiên tiến qua đó nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm của mình. Mặt khác, hàng hóa, dịch vụ từ các nước tiên tiến nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh để doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh của mình.
Thứ tư, tham gia các FTA giúp Việt Nam thu hút được nguồn vốn FDI từ các quốc gia thành viên, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trước khi Việt Nam ký kết các FTA (năm 1993), số FDI đầu tư vào Việt Nam rất ít, hầu như không đáng kể. Từ sau khi ký kết FTA với các đối tác nước ngoài, số lượng dự án FDI, số vốn đăng ký, số vốn thực hiện không ngừng tăng lên. Trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất chủ yếu là các quốc gia đã có ký kết FTA với Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á…
3.2. Thách thức
Thứ nhất, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật nội địa trong những lĩnh vực liên quan cho phù hợp với cam kết chung. Chẳng hạn, theo kết quả rà soát pháp luật, ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực một số quy định hiện hành trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009 cần phải được tiến hành sửa đổi, bổ sung. Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật công đoàn cũng cần được sửa đổi để phù hợp với những cam kết theo các FTA mà Việt Nam tham gia gần đây là CPTPP và EVFTA.
Thứ hai, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ từ phía các đối tác FTA được quy định khá chặt chẽ. Chẳng hạn, EU là thị trường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm. Trong khi đó đa số ngành hàng nông sản của nước ta như chè, rau quả... vẫn vấp phải những hạn chế, do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thiếu tính đồng nhất trong từng lô hàng, công tác thu hoạch bảo quản chưa tốt. Do vậy, hàng hóa của Việt Nam cần phải được hoàn thiện rất nhiều về chất lượng để có thể đạt đủ tiêu chuẩn hưởng lợi về thuế quan.
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc thực hiện quy tắc xuất xứ của các FTA. Để được hưởng mức thuế quan ưu đãi, hàng hóa Việt Nam phải thỏa mãn các yêu cầu về quy tắc xuất xứ, thông thường nguyên liệu phải đáp ứng được một tỷ lệ về hàm lượng nội khối nhất định (nguyên liệu phải có xuất xứ tại các nước đối tác và/hoặc Việt Nam). Trong khi đó, hiện này hàng xuất khẩu của Việt nam có nguồn nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc và các nước ASEAN. Chẳng hạn, nếu không đảm bảo được quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức thuế đãi ngộ tối huệ quốc, chứ không phải là mức thuế suất ưu đãi như trong cam kết của EVFTA.
Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ của các đối tác FTA. Phần đa doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì vậy áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Với các cam kết về mở cửa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, Việt Nam sẽ mở rộng cửa cho các doanh nghiệp, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, nhà đầu tư của các đối tác FTA. Với các ưu đãi thuế sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước EU vào Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước. Điều này là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam, trong bối cảnh các doanh nghiệp của một số đối tác có lợi thế hơn hẳn về năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm thị trường, cũng như khả năng tận dụng các FTA. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để có thể cải thiện năng lực cạnh tranh của mình.
Thứ nhất, chính phủ cần làm tốt các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các FTA đã ký kết của Việt Nam cho các thành phần trong kinh tế. Cơ quan chức năng cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã ký kết, tăng cường phối hợp chặt chẽ từ trung ương đến địa phương trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và xuất, nhập khẩu hàng hóa. Ngoài ra, các Bộ, ngành, cần tích cực trao đổi với các hiệp hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) để nắm bắt các khó khăn, kiến nghị của doanh nghiệp và hỗ trợ kịp thời. Điều này sẽ giúp các thành phần trong nền kinh tế tiếp cận nhanh hơn với các FTA và từ đó có thể có các phương án để tận dụng các cơ hội mà các FTA mang lại.
Thứ hai, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thể chế hoàn thiện môi trường kinh doanh đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và cam kết trong các FTA với tinh thần đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị. Chính phủ cần có các văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn cụ thể về các FTA mà Việt Nam đã ký kết, đồng thời thúc đẩy quá trình sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật để có thể hoàn thành đúng lộ trình khi các FTA có hiệu lực.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và nắm rõ nội dung quy định trong các FTA. Các doanh nghiệp cần phải nắm được hiện nay Việt Nam đang ký kết các FTA nào, đối với mỗi FTA cần chuẩn bị những gì để có thể tận dụng các ưu đãi và hạn chế các thách thức FTA này mang lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần năng lực cạnh tranh thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm hiểu thị trường đối tác trong FTA để biết cần sản xuất sản phẩm gì, sản phẩm như thế nào và giá cả bao nhiêu, áp dụng quy tắc xuất xứ ra làm sao… để đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định trong các FTA. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác nêu trên để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn trên thế giới.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều đối tác trên thế giới. Để có thể tận dụng các cơ hội, và hạn chế các thách thức mà FTA mang lại, đòi hỏi sự phối hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành Trung ương và địa phương với các doanh nghiệp. Đồng thời, Việt Nam cần đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các quốc gia trên thế giới, trao đổi kinh nghiệm để tìm ra các giải pháp phù hợp, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO