^Back To Top
foto1 foto2 foto3 foto4 foto5

Chứng khoán

Tai lieu ke toan may

Thực trạng và một số giải pháp phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam

Thực trạng và một số giải pháp phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam

  1. Thực trạng phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam

Thời gian vừa qua, nền nông nghiệp Việt Nam đã và đang từng bước phát triển theo xu hướng nông nghiệp xanh với nhiều chính sách đã ban hành.

Ngày 25/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050.

Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số 885/QĐ-TTg, ngày 23/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.

 Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nền nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn, đáp ứng nhu cầu thị trường. Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Với các chính sách nêu trên, nền nông nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh. Thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đến cuối năm 2023, các địa phương đã phê duyệt 2.146 dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, trong đó, trồng trọt 1.504 dự án, chăn nuôi 489 dự án, lâm nghiệp 61 dự án, thủy sản 92 dự án, tổng kinh phí của các dự án, kế hoạch liên kết được duyệt là 11.440 tỷ đồng, bình quân 5,33 tỷ đồng/dự án liên kết.

Nhiều mô hình sản xuất đang chuyển đổi sang phát triển nông nghiệp xanh và sinh thái, theo xu hướng thị trường toàn cầu và giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Nhiều nông dân đã nhận thức rõ và từng bước ủng hộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo “4 đúng,” giảm lượng phân bón vô cơ, và áp dụng tiến bộ kỹ thuật như “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm” hay kỹ thuật tưới nông – lộ – phơi, từ đó đã giảm chi phí sản xuất và giảm gây ô nhiễm môi trường, tăng năng suất, chất lượng lúa gạo. Các mô hình canh tác tiên tiến, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại, quy trình nuôi trồng quy chuẩn, thân thiện với môi trường: hợp tác xã trồng rau Vietgap tại Đông Anh, Hà Nội; mô hình “Rau hữu cơ Gò nổi”, dự án “Vườn nhiệt đới Kapi” ở Quảng Nam; mô hình nông nghiệp tuần hoàn ở Tây Nguyên;

Nuôi trồng thuỷ sản đã chú trọng phát triển các vùng, mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao (đặc biệt là nuôi tôm siêu thâm canh), công nghệ thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, như: mô hình lúa - tôm, lúa – cá ở Đồng bằng sông Cửu Long;  phát triển lúa – rươi ở Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình; mô hình lúa - tôm ở Cà Mau; … nuôi cá tra hữu cơ giúp nông dân gia tăng lợi nhuận 15% so với nuôi cá truyền thống ở An Giang…

Nông nghiệp hữu cơ cũng phát triển mạnh mẽ, với diện tích canh tác hữu cơ tăng từ 77.000 hecta năm 2016 lên khoảng 240.000 hecta năm 2022, lan tỏa rộng rãi tại 59/63 tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, có khoảng 160 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông nghiệp hữu cơ, với kim ngạch xuất khẩu hằng năm đạt khoảng 335 triệu USD (tăng gần 15 lần so với năm 2010), đứng thứ 8 trong 10 nước có diện tích nông nghiệp hữu cơ tại châu Á. Sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến các thị trường quốc tế lớn, như: Nhật Bản, Anh, Mỹ, Hàn Quốc

Những giải pháp đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh đã góp phần chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền vững. Năm 2023, tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp 3,83%, đóng góp lớn vào mức tăng trưởng 5,05% của nền kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS duy trì mức cao, trên 53 tỷ USD, thặng dư thương mại đạt 12,07 tỷ USD. Trong đó một số mặt hàng tăng cao kỷ lục như: Rau quả 5,69 tỷ USD, gạo 4,78 tỷ USD, điều 3,63 tỷ USD. Nhờ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ngày càng được tiêu thụ mạnh mẽ trong nước và xuất khẩu sang 180 nước, bao gồm Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, ….

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự phát triển nông nghiệp xanh ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế và thách thức:  

Một là, hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp xanh thiếu đồng bộ.

Hai là, quan điểm và nhận thức của người sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp chưa có sự thay đổi rõ rệt.

Ba là, nông nghiệp vẫn hoạt động dựa trên nền tảng quy mô nhỏ lẻ, nên việc áp dụng các hình thức sản xuất khép kín, tập trung lớn của nông nghiệp xanh là khá khó khăn.

Bốn là, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp xanh còn hạn chế.

  1. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam thời gian tới

Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp xanh.

Tiếp tục bổ sung hoàn thiện công tác quy hoạch, ban hành và thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho nông nghiệp xanh cho phát triển, như: chính sách đầu tư, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tích tụ và tập trung ruộng đất… giải quyết tốt các tác động tiêu cực do công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao và quá trình đô thị hóa gây nên, trong đó vấn đề quy hoạch, vấn đề phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phát triển NNX ngay trong lòng đô thị đã được các nước thực hiện đem lại hiệu quả cao

Hai là, nâng cao nhận thức của người sản xuất và người tiêu dùng về nông nghiệp xanh.

Tận dụng triệt để phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội,… để phổ biến rộng rãi ô nhiễm môi trường nông nghiệp và an toàn sản phẩm nông nghiệp, đồng thời nâng cao nhận thức xanh của người sản xuất và người tiêu dùng về sức khỏe môi trường, giúp người nông dân hiểu sâu sắc về mối liên hệ giữa sản xuất xanh, bảo vệ hệ sinh thái, an toàn và sức khỏe thông qua việc tăng cường công khai và giáo dục về sản xuất xanh của nông dân, từ đó nâng cao nhận thức của nông dân về sản xuất xanh, khuyến khích nông dân tham gia HTX.

Ba là, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp phát triển nông nghiệp xanh

            Quy hoạch và quy hoạch lại các vùng nông nghiệp xanh theo hướng khai thác lợi thế so sánh nhằm sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm nông sản và phù hợp với xu hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm. Tạo dựng những vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, được chuẩn hóa với những quy trình canh tác chặt chẽ và thực hiện chuyển đổi số.

Bốn là, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp xanh.

Tăng cường áp dụng đồng bộ các giải pháp về tổ chức sản xuất về giống chất lượng cao; quy trình canh tác theo hướng hữu cơ, GAP trên cơ sở chuyển đổi số; sử dụng vật tư phân bón hữu cơ hoặc hữu cơ vi sinh, thuốc trừ sâu, thuốc thú y có nguồn gốc sinh học; tận dụng phụ phẩm nông nghiệp làm nguyên liệu chế biến phân hữu cơ, kết hợp với chế biến sâu, sản xuất theo chuỗi giá trị, dựa trên các HTX kiểu mới, các DN nông nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển nông nghiệp xanh… Tăng cường chuyển đổi số để khớp nối thông tin giữa sản xuất và tiêu thụ, xây dựng thương hiệu quốc gia. Tăng cường hợp tác quốc tế để kêu gọi hỗ trợ về tài chính và chuyển giao công nghệ, nhằm đưa nông nghiệp Việt Nam trở thành hình mẫu về phát triển nông nghiệp xanh, các-bon thấp, an toàn thực phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi nông sản toàn cầu.

Tài liệu tham khảo

  1. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1558/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050";
  2. Chính phủ (2018), Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ;
  3. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 885/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030.

 

Copyright © 2013. Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hà Tĩnh Rights Reserved.


Facebook twitter youtube