^Back To Top
foto1 foto2 foto3 foto4 foto5

VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM KHI VIỆT NAM GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Ngày 12/11 năm 2019, Quốc hội Việt Nam đã bấm nút phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với sự ủng hộ tuyệt đối của các đại biểu tham dự phiên họp.

Xét dưới giác độ việc làm và người lao động, CPTPP mang lại cả cơ hội và thách thức, có những thuận lợi và khó khăn đan xen. Về cơ hội, việc gia nhập CPTPP sẽ đem lại nhiều cơ hội mới về việc làm cho người lao động, dự báo có thể mang lại 352 ngàn tới 456 ngàn việc làm tùy vào kịch bản, đem lại tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội. Một số ngành được hưởng lợi lớn về việc làm là dệt may, thương mại và các ngành công nghiệp nhẹ. Những cam kết trong CPTPP mà cốt lõi là cắt giảm hàng rào thuế quan, thực hiện nguyên tắc tự do bình đẳng trong thương mại mở ra việc tiếp cận thị trường một cách toàn diện, đảm bảo sự dịch chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, tạo ra nhiều cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp. Về chất lượng việc làm, thời gian đầu tham gia, khả năng số lao động có tay nghề thấp tăng nhanh hơn, nhưng những năm sau, tỷ lệ lao động có kỹ năng sẽ tăng lên, số việc làm với lao động có trình độ kỹ thuật sẽ nhiều hơn.

  1. Về tình hình lao động của Việt Nam hiện nay

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến quý IV/2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước đạt 56,1 triệu người, tăng so với năm 2018 (hơn 55,3 triệu người). Tỷ lệ qua đào tạo của lao động khu vực thành thị đạt 41,3%, cao hơn gần 3 lần khu vực nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản nhưng tăng trong khu vực công nghiệp và dịch vụ và đạt mức cao nhất kể từ 2015. Năm 2019 là năm đầu tiên tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống thứ hai sau khu vực dịch vụ.

Về độ tuổi, lực lượng lao động chủ yếu nằm ở nhóm tuổi từ 25 – 49, chiếm xấp xỉ 60%, tiếp đến là nhóm lao động từ 50 tuổi trở lên. Còn nhóm lao động từ 15 – 24 tuổi đang có xu hướng giảm về tỷ trọng, về số lượng cũng biến động theo hướng giảm xuống.

 

 

Bảng 1. Lực lượng lao động 15 tuổi trở lên phân chia theo nhóm tuổi

Năm

Tổng số (Nghìn người)

Độ tuổi 15 - 24

Độ tuổi 25 - 49

Độ tuổi 50+

Số lượng (nghìn người)

Cơ  cấu (%)

Số lượng (nghìn người)

Cơ  cấu (%)

Số lượng (nghìn người)

Cơ  cấu (%)

2013

53.245,6

7.916,1

14,9

31.904,5

59,9

13.425,0

25,2

2014

53.748,0

7.585,2

14,1

32.081,0

59,7

14.081,8

26,2

2015

53.984,2

8.012,4

14,9

31.970,3

59,2

14.001,5

25,9

2016

54.445,3

7.510,6

13,8

32.418,3

59,5

14.516,4

26,7

2017

54.823,8

7.581,1

13,8

32.599,2

59,5

14.643,5

26,7

2018

55.354,2

7.049,3

12,7

33.339,3

60,2

14.965,6

27,1

Nguồn: Tổng cục thống kê

            Về cơ cấu lao động đang làm việc đã qua đào tạo phân chia theo trình độ, với tỷ lệ lao động qua đào tạo đang ngày càng tăng lên, từ 18,2% năm 2014 tăng lên 21,9% năm 2018 và năm 2019 là 22,8%. Trong số đó, tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên chiếm tỷ trọng cao nhất.

Bảng 2. Cơ cấu lao động đang làm việc đã qua đào tạo phân chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật

Đơn vị: %

 

2014

2015

2016

2017

Sơ bộ 2018

TỔNG SỐ

18,2

19,9

20,6

21,4

21,9

Dạy nghề

4,9

5,0

5,0

5,4

5,5

Trung cấp chuyên nghiệp

3,7

3,9

3,9

3,8

3,7

Cao đẳng

2,1

2,5

2,7

2,8

3,1

Đại học trở lên

7,6

8,5

9,0

9,4

9,6

Nguồn: Tổng cục thống kê

Mặc dù đang có rất nhiều lợi thế về nguồn nhân lực do đang ở trong thời kỳ dân số vàng. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI) đã chỉ ra rằng hầu hết các kỹ năng mềm của người lao động Việt Nam nằm ở mức trung bình hoặc yếu, đặc biệt là kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng lãnh đạo cụ thể như:

 

  • Thiếu đội ngũ nhân lực chất lượng cao

Mặc dù tăng nhanh nhưng quy mô lao động trình độ tay nghề cao vẫn còn nhỏ bé so với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thông tin viễn thông, du lịch…) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.

Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Nghiên cứu của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội (2017) cũng cho thấy, mức độ đáp ứng về kỹ năng do thay đổi công nghệ của lao động trong các doanh nghiệp điện tử và may rất thấp.

Trừ kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động có tỷ lệ doanh nghiệp được khảo sát đánh giá tốt và rất tốt về mức độ đáp ứng kỹ năng của lao động so với yêu cầu công nghệ mới khá cao (72% với ngành điện tử và 50% với ngành may mặc), các kỹ năng còn lại đều có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá tốt/rất tốt là khá thấp, đặc biệt đối với ngành may mặc.

Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.

Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn hạn chế.

Mặt khác, tỷ lệ lao động có kỹ năng cao trong các ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam rất thấp. Theo báo cáo lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê, năm 2016, Việt Nam có gần 5,4 triệu lao động có trình độ kỹ năng cao, trong đó tập trung nhiều nhất trong ngành GD-ĐT (chiếm 30% số lao động trình độ cao, tỷ trọng lao động trình độ cao chiếm 88,4% lao động của ngành), hoạt động của Đảng, tổ chức chính trị xã hội, quản lý Nhà nước và an ninh quốc phòng (chiếm 19%), y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (chiếm 8%).

Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo – là ngành chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao, trong khi với các nước phát triển tỷ lệ này lên đến 40 – 60%.

Trong số những lao động có kỹ năng cao, có đến gần 1,4 triệu người (tương đương 1/4) không có bằng cấp hoặc chỉ có bằng sơ cấp, trung cấp; người có trình độ đào tạo CĐ trở lên chiếm 74,3% lao động có kỹ năng cao.

 

  • Công tác đào tạo chưa phù hợp

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số sinh viên đại học, cao đẳng năm 2015 là 2.118,5 nghìn sinh viên, trong đó sinh viên công lập là 1847,1 nghìn và ngoài công lập là 271,4 nghìn người. Trong khi đó, học sinh TCCN chỉ là 314,8 nghìn học sinh, với 218,6 nghìn học sinh công lập và 96,2 nghìn học sinh ngoài công lập.

Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. (Viện Khoa học, Lao động và Xã hội, 2017). Theo Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2005 – 2015 và định hướng phát triển giai đoạn tới” của Quốc hội, Việt Nam có 164.744 người tham gia hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D), trong đó số cán bộ nghiên cứu có trình độ CĐ và ĐH trở lên là 128.997 người. Nếu quy đổi tương đương toàn thời gian, số lượng cán bộ R&D của Việt Nam chỉ đạt 7 người/vạn dân.

Ngoài ra, chất lượng chương trình giảng dạy của các trường còn thấp, chưa đào tạo được lao động có kỹ năng làm việc thực tế. Với chương trình đào tạo hiện nay của các trường ĐH, CĐ, SV mới ra trường tại Việt Nam thường thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng mềm và đào tạo chưa gắn liền trực tiếp với công việc tại các doanh nghiệp.

Cụ thể, phương thức giảng dạy vẫn còn lạc hậu, chưa áp dụng các công nghệ hiện đại mới đang được sử dụng. Trong công tác xây dựng chương trình giảng dạy còn thiếu các chương trình thực tế, dẫn đến thiếu cơ hội cho HS, SV áp dụng những kiến thức được học trong nhà trường vào các vấn đề cụ thể của xã hội.

Thêm vào đó, tình trạng người lao động thiếu định hướng trong việc chọn ngành nghề từ bậc phổ thông cũng khiến cho cung lao động của Việt Nam gặp nhiều vấn đề. Với tâm lý bằng cấp, hầu hết người lao động đều lựa chọn học ĐH hoặc sau ĐH mà không chú trọng đến cầu nhân lực cũng như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng người lao động có bằng ĐH nhưng chấp nhận làm những công việc không cần chuyên môn kỹ thuật. SV Việt Nam cũng chưa định hướng tốt những ngành nghề mà thị trường có nhu cầu.

Một khảo sát của ILO (2016) cho thấy đa số SV Việt Nam lựa chọn khối ngành kinh tế, trong khi khối ngành kỹ thuật có nhu cầu lao động rất lớn lại không được SV lựa chọn nhiều. Ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học (STEM) được 23% SV nam và 9% SV nữ của Việt Nam lựa chọn. Như vậy đối với ngành căn bản tạo năng lực sản xuất dài hạn như nhóm ngành STEM thì SV Việt Nam dường như không quá mặn mà và tỷ lệ này thấp hơn hẳn mức trung bình trong ASEAN: 28% SV nam và 17% SV nữ.

Các SV Việt Nam chủ yếu thích lựa chọn ngành kinh doanh, thương mại, tài chính. Điều này trong một chừng mực nào đó cho thấy thị trường lao động Việt Nam đang phát triển thiên về các ngành dịch vụ hỗ trợ mà chưa phát triển mạnh các ngành thuộc khu vực thực, tạo ra giá trị gia tăng căn bản cho nền kinh t

  1. Thuận lợi và khó khăn cho thị trường lao động khi Việt Nam gia nhập hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương ( CPTPP)

-   Thuận lợi:

Với hệ thống pháp luật và môi trường đầu tư tốt hơn, người lao động Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội việc làm, lựa chọn nghề nghiệp, điều kiện lao động, thu nhập, đời sống được nâng cao hơn, được bảo vệ và bình đẳng với người lao động các quốc gia khác. Để tận dụng được những cơ hội CPTPP mang lại, lực lượng lao động của Việt Nam cần được đào tạo để có kỹ năng nghề, công nghệ thông tin, đặc biệt khi vào giai đoạn công nghiệp 4.0.

-  Khó khăn:

Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu khả quan, thị trường lao động việc làm của Việt Nam vẫn tồn tại như cơ cấu lao động còn khá lạc hậu. Về cơ bản, Việt Nam vẫn là thị trường lao động trong nông thôn, thông nghiệp với chất lượng lao động thấp, phân bổ chưa hợp lý, lao động làm việc trong ngành nghề đơn giản, không đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật.

Nếu không đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ không có việc làm, thất nghiệp của người lao động là rất lớn, luôn có thể đến với cá nhân, nhóm người, thậm chí cả doanh nghiệp. Về cơ hội, việc gia nhập CPTPP sẽ đem lại nhiều cơ hội mới về việc làm cho người lao động, dự báo có thể mang lại 352 ngàn tới 456 ngàn việc làm tùy vào kịch bản, đem lại tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội. Một số ngành được hưởng lợi lớn về việc làm là dệt may, thương mại và các ngành công nghiệp nhẹ.

  1. Một số giải pháp

- Đối với người lao động :

Khi gia nhập CPTPP người lao động cần phải trang bị thêm cho mình những kiến thức cũng như trình độ chuyên môn . Để đáp ứng với yêu cầu của hiệp định , phải làm chủ công nghệ trong công việc nghiên cứu cũng như trong sản xuất .

- Đối với Nhà nước :

Cần có các chính sách phù hợp để người lao động có thể đảm bảo cho mình về chuyên môn cũng như đời sống , như hộ trợ các chương trình học tập cho người lao động để theo kịp  với các nước trong khu vực và  có chính sách tiền lương cùng chế độ làm việc thích đáng sao cho người lao động yên tâm với công việc của mình để tạo ra những kết quả lao động tốt nhất . 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Báo diễn đàn doanh nghiệp (09/01/2019)
  2. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2018
  3. Thời báo kinh tế Việt Nam quý 4 năm 2018
  4. Website: https://vov.vn/xa-hoi/thi-truong-lao-dong-2019-tiep-tuc-khat-lao-dong-chat-luong-cao-878351.vov

 http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thuc-trang-luc-luong-lao-dong-viet-nam-va-mot-so-van-de-dat-ra-302133.html

  1. Hình ảnh được lấy từ các báo kinh tế
Copyright © 2013. Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hà Tĩnh Rights Reserved.


Facebook twitter youtube