
Với bờ biển dài 137km, nhiều bãi tắm đẹp; Hà Tĩnh có các khu bảo tồn thiên nhiên gắn với cảnh quan hùng vĩ và đa dạng sinh học tạo nên những điểm đến hấp dẫn như: Thiên Cầm, Xuân Thành, Cửa Sót; đảo nổi Xuân Giang, Lũy đá cổ Kỳ Lạc...Dân cư sống trên những vùng đất ấy khá đông đúc và lâu đời nên đã để lại một kho tàng di sản văn hóa vô cùng lớn lao và cũng vô cùng giá trị. Những di tích văn hóa thời kỳ lịch sử, bao gồm các vạn chài, các công trình tôn giáo tín ngưỡng, các vùng đất khai hoang lấn biển, các hệ thống đê biển được phát hiện đậm đặc, suốt từ Thạch Hà đến Kỳ Anh là những minh chứng cho quá trình chinh phục chiếm lĩnh và làm chủ vùng biển của cha ông ta. Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn diện với khu vực và quốc tế, việc phát triển du lịch phải gắn với văn hóa vùng là một tất yếu khách quan. Do đó, Hội nghị Trung ương IV, khóa X Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một nghị quyết chiến lược vô cùng quan trọng đối với biển Việt Nam nói chung, đó là:“ Phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh và bảo vệ môi trường”. Thế nhưng, cho đến những năm gần đây, việc nghiên cứu phát triển kinh tế ngành du lịch gắn liền với bảo tồn di sản văn hóa chưa thực sự được như mong muốn, do nhiều lý do khách quan và chủ quan.
Du lịch di sản là trụ cột vô cùng quan trọng của Hà Tĩnh, các giá trị di sản văn hoá đặc sắc đã được công nhận là di sản cấp quốc gia. Ông Hà Văn Siêu, Phó cục trưởng Cục Du lịch Việt Nam cho rằng : “Sự công nhận của quốc tế và quốc gia là minh chứng cho sức hút mạnh mẽ của du lịch di sản, đó là nguồn động lực mạnh mẽ để khách du lịch xem địa phương đó là một điểm đến hấp dẫn.”. Đây chính là động lực cho Hà Tĩnh đầu tư, nâng tầm du lịch lên một tầm cao mới. Thiên nhiên đã ban tặng cho Hà Tĩnh nhiều danh lam thắng cảnh biển cũng như các di sản văn hoá phi vật thể được cả nước ghi nhận. Những giá trị về di sản bao gồm các di sản về thiên nhiên, cả về giá trị văn hoá, đặc biệt là giá trị di sản văn hoá tư liệu cũng như phi vật thể vô cùng đặc sắc và phong phú của Hà Tĩnh đã luôn luôn cuốn hút, tạo ra sức hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Du lịch di sản gắn với sinh kế của người dân tạo ra sức hút mới, khác biệt đối với các điểm đến. Hà Tĩnh đầu tư vào các dịch vụ vui chơi giải trí, sản phẩm du lịch đêm, đặc biệt là tạo ra những không gian văn hoá có sự tương tác giữa người dân địa phương với khách du lịch để tạo nên sự hấp dẫn, để khách lưu lại dài hơn và trải nghiệm nhiều hoạt động tương tác văn hoá với người dân địa phương. Di sản văn hóa phi vật thể trong kho tàng di sản văn hóa biển Hà Tĩnh vô cùng phong phú, được biểu hiện dưới nhiều dạng thức. Đó là những kinh nghiệm sống và làm ăn của cư dân được tích tụ và truyền lại từ nhiều thế hệ. Đó là những tri thức được tích lũy và ứng dụng thông qua sinh hoạt thường nhật và lao động sản xuất mùa vụ. Đó là những tín ngưỡng, dân ca, được sáng tạo và hội nhập từ nhiều nền văn hóa và văn minh, qua bao thế hệ của lợi thế vị trí biển đảo đem lại. Tuy nhiên, lễ hội vẫn là một sáng tạo đặc biệt có ý nghĩa của hầu hết cộng đồng cư dân. Hiện tại, Hà Tĩnh có ba lễ hội được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia gồm: Lễ hội đến Lê Khôi, Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông, Lễ hội cầu ngư Nhượng Bạn. Hai trong số di sản được công nhận đó là di sản văn hoá vùng biển.
Ngày 8 tháng 4 âm lịch hàng năm, tại xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên (cũ) nay là xã Thiên Cầm, tỉnh Hà Tĩnh, diễn ra Lễ hội Cầu ngư Nhượng Bạn. Đây là lễ hội người dân vùng biển còn lưu giữ trở thành nét văn hóa đặc sắc, được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể cấp Quốc gia năm 2022, là cơ sở pháp lý để địa phương tiếp tục bảo tồn, phát huy giá trị và duy trì lễ hội trường tồn mãi mãi. Lễ hội cầu ngư Nhượng Bạn xuất phát từ nhu cầu cuộc sống cộng đồng, phản ánh ước vọng của người dân địa phương. Thông qua thực hành lễ hội, con người hiểu sâu sắc hơn về văn hóa dân tộc, thể hiện mong muốn về sự phồn thịnh và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng. Lễ hội cũng biểu hiện sức mạnh của cộng đồng, thắt chặt tình đoàn kết trong sản xuất và chiến đấu; hướng con người trở về cội nguồn dân tộc, văn hóa....Lễ hội được tổ chức rất trang trọng, thu hút đông đảo cộng đồng người dân tham gia với phần lễ và phần hội; trong đó có 4 phần chính nghi thức tế lễ, lễ hội chèo cạn, lễ rước trên biển và lễ tế tại miếu đường. Trong dịp này, tại xã Cẩm Nhượng (cũ) diễn ra các hoạt động văn hóa, thể thao như kéo co, bóng chuyền, đua thuyền và các hoạt động khác nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại, du lịch thu hút đông đảo du khách thập phương và nhân dân đến tham gia, cổ vũ.
Lễ hội Cầu ngư Nhượng Bạn
Bên cạnh đó, Đền thờ Chiêu Trưng Đại vương Lê Khôi nay thuộc địa phận xã Thạch Khê, tỉnh Hà Tĩnh nổi tiếng bởi cảnh sắc đẹp và lễ tế giỗ ông hàng năm được coi là nét đẹp văn hóa độc đáo của ngư dân vùng cửa biển hai huyện Thạch Hà, Lộc Hà cũ. Lễ hội đền Chiêu Trưng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Trước khi diễn ra phần chính lễ ở đền Lê Khôi thì tại đền Vọng (xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh, nay là xã Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Vọng Mai Lâm (xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh, nay là xã Mai Phụ, Hà Tĩnh) đều có lễ tế kéo dài nhiều giờ. Lễ hội đền Lê Khôi đã tồn tại hơn 500 năm, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Trong lễ hội, lễ rước kiệu được chuẩn bị công phu, mỗi đoàn rước có hơn 100 người, đi bằng 5 - 7 thuyền mỗi đoàn, các thuyền đều được trang trí cờ hoa.
Lễ rước tại Đền Lê Khôi
Hàng năm, để lễ hội đền Lê Khôi diễn ra trong không khí trang nghiêm, UBND hai huyện Thạch Hà và Lộc Hà cũ, Ban quản lý đền cùng chính quyền và nhân dân 4 xã bãi ngang ven biển đã chuẩn bị rất chu đáo mọi thứ từ trước đó 2 tháng, huy động lực lượng từ các tổ chức đoàn thể, hội... tham gia phục vụ, giúp Ban tổ chức điều hành, quản lý các hoạt động trong suốt quá trình diễn ra lễ hội, hạn chế những sai sót và hành vi tiêu cực, đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường.
Có thể khẳng định rằng, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa biển của Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể được quan tâm, bảo tồn và lưu giữ có hiệu quả, đời sống văn hoá của nhân dân ngày càng được nâng cao, nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức được hình thành, các giá trị về văn hóa truyền thống của quê hương, dân tộc được phổ biến, đề cao…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn liền với du lịch của tỉnh đang gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định, đó là: Tình trạng xâm hại, lấn chiếm, hoạt động mê tín, dị đoan vẫn còn diễn ra tại một số di tích lịch sử văn hóa trong tỉnh; nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa hàng năm rất hạn hẹp trong khi nguồn ngân sách tỉnh và các địa phương hết sức khó khăn, việc kêu gọi, huy động các nguồn lực xã hội hóa ngày càng hạn chế, nhất là đối với các di tích lịch sử, cách mạng, di sản văn hóa phi vật thể. Hoạt động lễ hội truyền thống còn bộc lộ nhiều thiếu sót, đó là việc tổ chức lễ hội nhiều nơi còn lộn xộn, còn để xẩy ra tình trạng đốt vàng mã, xin xăm, xóc thẻ, hàng quán bày bán tràn lan, chèo kéo khách, vứt rác bừa bãi… Các loại hình văn hóa phi vật thể rất dễ bị mai một theo thời gian nhưng việc gìn giữ, bảo tồn khó khăn vì lực lượng nghệ nhân mỏng, tuổi cao, nguồn kinh phí tổ chức các lớp truyền dạy còn hạn chế. Công tác phát triển, sưu tầm và lưu giữ các làn điệu dân ca, nhạc cụ truyền thống, các môn thể thao, trò chơi truyền thống... chưa được quan tâm thường xuyên. Du khách đến với các lễ hội này chưa thực sự mặn mà với việc trải nghiệm các trò chơi dân gian truyền thống. Sau hoạt động lễ hội, chưa thực sự có những tour cụ thể để níu chân du khách tới trải nghiệm các hoạt động làng vạn chài. Như vậy, để “chuyển mình” phù hợp với những “cơn lốc đô thị hoá và các dự án resort “đổ bộ” xuống các làng quê ven biển, thì ngành du lịch biển cũng có thể có phương án biến mình thành “những làng chài du lịch biển”, làng “bích hoạ”, những điểm check in …..mang dấu ấn văn hoá bản địa và nhộn nhịp bước chân du khách. Du khách đến có thể không chỉ chiêm ngưỡng cảnh đẹp biển, tham gia các lễ hội sinh hoạt cộng đồng, đề chơi đùa với sóng biển, mà còn để tham quan những hộ gia đình làm nước mắm truyền thống Thạch Hải, Cẩm Nhượng, câu mực đêm trên biển Thiên Cầm….để thưởng thức những món ăn tươi ngon đến từ biển cả và để trải nghiệm “sống chậm” trong những homestay dân dã trong làng chài.
Để du lịch di sản vùng biển vừa có được sự đột phá mới, vừa bảo tồn và phát huy được các di sản thì địa phương cần có kế hoạch nhằm quản lý, khai thác kinh doanh du lịch có hiệu quả giá trị di sản nhằm phát huy tốt đẹp văn và tạo ra sản phẩm du lịch gắn với sinh kế của nhân dân; trong đó chú trọng xây dựng các giải pháp để quảng bá, giới thiệu những nét độc đáo đặc sắc của lễ hội nhằm thu hút du khách; nghiên cứu, sưu tầm những tư liệu hiện vật gắn với lễ hội để làm sâu sắc thêm về ý nghĩa và giá trị xứng tầm là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngoài ra, để khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực tài nguyên du lịch trong tỉnh, tận dụng cơ hội thuận lợi trong nước, khu vực và quốc tế, tạo đột phá, phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh, độc đáo, thu hút du khách để phát triển bền vững trong thời kỳ mới, du lịch biển Hà Tĩnh cần có sự gắn kết với yếu tố vùng văn hóa. Hiện nay, thị trường khách du lịch lớn nhất của Hà Tĩnh là Lào, Thái Lan và Trung Quốc. Theo thống kê, số liệu khách du lịch Lào chiếm tỷ trọng cao nhất 40%, Thái Lan khoảng 30%, Trung Quốc khoảng 20%; thị trường Châu Âu và các thị trường khác chiếm khoảng 10% còn lại. Trong thời gian qua, khách du lịch nước ngoài đến từ thị trường Lào và Thái Lan có chung mục đích là tắm biển, nghỉ dưỡng, tham quan các di tích lịch sử - văn hóa; khách đến từ Trung Quốc, Châu Âu và các thị trường còn lại chủ yếu vì mục đích công vụ. Khách nội địa đến Hà Tĩnh chủ yếu từ Hà Nội chiếm 30%, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc chiếm 4,2%, từ các tỉnh lân cận như Nghệ An, Quảng Bình chiếm 50%, từ các tỉnh phía Nam chiếm 15,8%. Khách du lịch nội địa chủ yếu: nghỉ dưỡng biển, tắm biển chiếm khoảng 30%; du lịch thương mại, công vụ chiếm gần 25%; tham quan các di tích lịch sử - văn hóa, tâm linh 30%; du lịch sinh thái, thưởng thức cảnh quan tự nhiên chiếm 15%. Như vậy, lượng khách du lịch tới Hà Tĩnh mới mục đích nghĩ dưỡng biển chiếm số lượng cao nhất. Điều đó đặt ra cần thiết phải phát triển thị trường khách du lịch, phát triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế. Trong đó, phát triển mạnh thị trường du lịch nội địa, chú trọng khách với mục đích nghỉ dưỡng biển, du lịch về nguồn, nghỉ cuối tuần, lễ hội tâm linh; khuyến khích phát triển, mở rộng thị trường du lịch sinh thái và du lịch kết hợp công vụ.
Trong tương lai gần, nhờ vào sự định hướng đổi mới của ngành du lịch tỉnh nhà để những cộng đồng dân cư ven biển Hà Tĩnh nhanh chóng thích ứng, chuyển đổi làng quê trở thành những điểm du lịch sinh động và hấp dẫn, không chỉ để duy trì sinh kế cho cộng đồng, mà còn góp phần tạo ra diện mạo và sinh khí mới cho làng quê ven biển của mình, đưa những giá trị di sản văn hoá của quê hương tới với đông đảo du khách trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://heritagevietnamairlines.com/lang-bien-lam-du-lich/