^Back To Top
foto1 foto2 foto3 foto4 foto5

Lãi suất - cơ hội cho doanh nghiệp "xanh"

Nền kinh tế xanh hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ của riêng Việt Nam mà là của cả thế giới. Trong đó, sản xuất, kinh doanh theo hướng phát triển bền vững, tạo ra lợi nhuận hài hòa giữa sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường chính là trách nhiệm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này. Nguyên nhân chủ yếu chính là việc các doanh nghiệp thiếu kinh phí. Trước những khó khăn của các doanh nghiệp, đã có nhiều ngân hàng, quỹ tín dụng đứng ra cùng chung tay với doanh nghiệp trong công tác cải thiện chất lượng môi trường sản xuất.

18-11NenKinhTeXanh

Qua phỏng vấn ý kiến phản ánh của một số giám đốc doanh nghiệp xanh, hiện hệ thống các khu công nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường. Phần lớn hệ thống xử lý chất thải, nước thải và khí thải công nghiệp đã xuống cấp, đòi hỏi phải cải tạo, nâng cấp hoặc thay mới. Thế nhưng, vấn đề kinh phí để tái đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải lại hết sức nan giải, nhất là vào thời điểm nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn.Trong đó lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được cập nhật hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng vì nó là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế.

Trước thực tế đó, qua điều tra cho thấy rằng hiện nay Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam cùng hợp tác với Ngân hàng Thế giới tiến hành cho các chủ đầu tư vay vốn ưu đãi để xây dựng mới, sửa chữa các dự án môi trường. Theo đó, các chủ đầu tư có thể vay tối đa lên đến 5 triệu USD với lãi suất 6,8%/năm. Thời gian cho vay cũng dài hơi hơn, linh hoạt từ 15 đến 20 năm. Những đối tượng được vay ưu đãi là doanh nghiệp Việt Nam - chủ đầu tư các trạm xử lý nước thải tập trung đang hoạt động, được mở rộng hoặc tiến hành đầu tư mới.

Tuy nhiên, để được vay vốn ưu đãi, các chủ đầu tư phải đáp ứng được một số tiêu chí như: cam kết hệ thống xử lý nước thải tập trung có kết nối với 100% các doanh nghiệp thuê đất trong khu công nghiệp; cam kết chỉ có một đầu xả thải; vận hành hệ thống xử lý nước thải theo đúng quy định hiện hành và nước thải sau khi xử lý phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn quy định.

Bên cạnh đó, đại diện Quỹ Tín dụng xanh (thuộc Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam) cũng cho biết, quỹ đang triển khai chương trình hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư công nghệ sạch,có lợi cho môi trường từ trung hạn cho đến dài hạn với mức bảo lãnh tối đa 50%/tổng giá trị khoản vay. Những loại hình công nghiệp có tiềm năng được tiếp cận nguồn vốn này là ngành sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất giấy, chế biến thực phẩm, sản xuất thép, luyện kim, da và sản xuất hóa chất.

Không dừng ở đó, tại các tỉnh thành Quỹ Bảo vệ môi trường cũng  đã và đang triển khai nhiều chương trình hỗ trợ đơn vị, tổ chức tham gia đầu tư các dự án xử lý chất thải rắn, rác thải sinh hoạt; nước thải, xây dựng các trạm xử lý nước thải tại các khu công nghiệp; dự án xử lý khí thải; dự án tiết kiệm năng lượng ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường… Theo đó, những đơn vị, tổ chức nào đầu tư những lĩnh vực trên được vay vốn với lãi suất ưu đãi 6%/năm và thời gian cho vay tối đa là 7 năm.

Có thể thấy rằng, việc tiếp cận vốn với lãi suất ưu đãi không còn là chuyện khó. Cái khó còn lại chính là các cá nhân, đơn vị, tổ chức ý thức như thế nào về việc cần thiết phải cải thiện chất lượng môi trường sản xuất hiện nay.

Tài liệu tham khảo

1. http://www.sggp.org.vn/

2. http://dalat-info.vn/TIPC-Lamdong

3. http://www.vietnamplus.vn/

Chuyển giá - hình thức gian lận thuế chủ yếu của các doanh nghiệp

Thuế là bộ phận quan trọng nhất của Ngân sách Nhà nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, quản lý thu thuế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng ở các nước đang phát triển đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau tạo ra sức ép ngày càng tăng đối với nhiệm vụ thu thuế của Nhà nước. Một trong những thách thức lớn đó là việc gian lận thuế của doanh nghiệp qua chuyển giá.

Gian lận là hành vi cố ý do một hay nhiều người trong Ban quản trị, Ban giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, bằng các hành vi gian dối để thu lợi một cách bất chính hoặc bất hợp pháp (Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 240).

Hay, gian lận thuế là “hành vi gian lận của các tổ chức và cá nhân được thực hiện trong lĩnh vực thuế, trong đó tồn tại sự cố ý làm sai lệch nghĩa vụ thuế nhằm làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn”. 

Chuyển giá được hiểu là "việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu”.

 Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI), mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau.

Như vậy, cần hiểu hành vi chuyển giá theo một nghĩa rộng hơn. Theo đó, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết. Các đối tác liên kết ở đây có thể là: các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia; các công ty hoặc đơn vị thành viên trong một tổng công ty, công ty; các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt, thường là mối quan hệ thân nhân.

Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao.

Động cơ của hành vi chuyển giá, không gì khác, chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Chẳng hạn như, công ty B và C đều là công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp hơn giá thị trường giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của C tăng lên tương ứng. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B và phải chịu thuế suất 25%. Như vậy, nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã giảm đi.

Ví dụ trên cho thấy chuyển giá xuất hiện khi có những điều kiện nhất định. Đó là: Sự chênh lệch về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia khác nhau; có quy định nhiều mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với những đối tượng khác nhau trong một quốc gia, chẳng hạn như quy định các mức thuế suất ưu đãi thấp hơn thuế suất phổ thông; có các quy định về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn.

        Một số đặc điểm của hoạt động chuyển giá:

          Không có sự thương lượng trước trong điều kiện thị trường cạnh tranh mà nó thường gắn với quan hệ, liên kết giữa bên giao và bên nhận, do chủ công ty điều hành.

          Được xác định không hợp lý nhằm chủ động dồn thu nhập vào nơi không phải nộp thuế hoặc nộp thuế thấp, dồn chi phí vào nơi có thuế cao.

          Đối với công ty đa quốc gia, việc giao nhận là cùng trong một tập đoàn, nên thu nhập chung của tập đoàn thường là không thay đổi, nhưng thu nhập sau thuế thì lớn hơn vì đã gian lận được thuế.

          Đối với nước nhận đầu tư thì ngân sách quốc gia bị mất đi một khoản thuế do bị gian lận, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước.

Tác động của chuyển giá

Khi xảy ra hành vi chuyển giá mà không có quy định pháp luật để xử lý hoặc không được xử lý theo quy định của pháp luật thì sẽ có hai tác động cơ bản sau:

Thứ nhất, làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác động hiển nhiên đầu tiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước, và thực tế ở Việt Nam thì số thất thu này không nhỏ. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, có 760/1.358, tức là có tới 56% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động kinh doanh ở Việt Nam kê khai lỗ. Tất nhiên, có thể có trường hợp lỗ thật và số lỗ này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng không thể loại trừ khả năng chuyển giá, bởi vì, nếu đó là lỗ thực sự thì không thể có chuyện các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục gia tăng đầu tư vào Việt Nam.

Thực tế cho thấy, trong rất nhiều trường hợp, các nhà đầu tư nước ngoài đã xác định giá chuyển giao khác xa giá thị trường. Kết quả giám định của Công ty giám định quốc tế Thuỵ Sĩ (SGS) cho thấy: “Liên doanh Khách sạn Thăng Long (TP Hồ Chí Minh) - giá trị thiết bị khai báo 496.906 USD, giá trị thẩm định khai khống là 190.006 USD, chiếm tỷ lệ 40,43%. Trung tâm quốc tế dịch vụ văn phòng (Hà Nội) - giá trị thiết bị khai báo là 1.288.170 USD, giá trị thẩm định khai khống là 260.000 USD, tỷ lệ 21,16%. Công ty ô tô Hoà Bình (Hà Nội) - giá trị thiết bị khai báo là 5.823.818 USD, giá trị thẩm định khai khống là 1.602.298 USD, chiếm tỷ lệ 27,51%”.

Thứ hai,tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo ra khả năng hưởng lợi chính đáng từ hoạt động kinh doanh chính đáng. Ngoài ra, với việc được lợi nhờ chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá cao làm cho các doanh nghiệp khác không thể mua được nguyên liệu phục vụ sản xuất, kinh doanh, đẩy các doanh nghiệp khác vào tình trạng phá sản.

Một số giải pháp chống chuyển giá cần triển khai thực hiện ở Việt Nam thời gian tới

Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá. Những nội dung cụ thể cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá là:

- Trước mắt cần bổ sung một điều luật về chống chuyển giá vào Luật Quản lý thuế, về lâu dài nên ban hành Luật Chống chuyển giá – đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động chống chuyển giá, không chỉ có ý nghĩa đối với quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn liên quan đến quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên...

-Có quy định pháp lý cụ thể về các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra chống chuyển giá;

- Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt động chống chuyển giá, đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ hai, thu hẹp các ưu đãi thuế. Như đã nêu trong phần phân tích cơ sở của hành vi chuyển giá, chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế là tiền đề để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Hiển nhiên, vì những mục tiêu nhất định, cần phải thực hiện ưu đãi thuế, song cần cân nhắc các cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng... Nên hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi thuế.

          Thứ ba, nghiên cứu giao quyền điều tra cho cơ quan thuế. Trước mắt, có thể chỉ giao quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp Tổng cục. Về lâu dài, khi lực lượng công chức thuế đã được đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng đòi hỏi của chức năng điều tra thì có thể mở rộng quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp tỉnh. Việc giao quyền điều tra không chỉ giúp cơ quan thuế có điều kiện làm tốt hoạt động chống chuyển giá mà còn tạo điều kiện làm tốt hiệu quả quản lý thuế nói chung.

Thứ tư,thành lập bộ phận tình báo thuế ở Tổng cục Thuế. Đây chính là cơ quan có chức năng chuyên trách thu thập thông tin phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. Tình báo thuế không chỉ cần thiết cho hoạt động chống chuyển giá, mà còn rất hữu ích cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp thuế. Có hai việc quan trọng cần làm để hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp thuế là:

- Thành lập bộ phận tình báo thuế để mở rộng nguồn thu thập thông tin bằng các hoạt động nghiệp vụ của các bộ phận chức năng trong cơ quan thuế;

- Đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử, đảm bảo sự kết nối và trao đổi thông tin tự động giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước khác như: công an, kiểm sát, địa chính, kế hoạch – đầu tư...

Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động chống chuyển giá trong thời gian tới ở Việt Nam, cần quan tâm trước tiên đến việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chống chuyển giá và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong quản lý thuế nói riêng và quản lý nhà nước nói chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu Hội  nghị chuyên đề về chống thất thu thuế và nợ đọng thuế, Tổng cục Thuế tổ chức tháng 2/2012

2. Chính Phủ, Hà Nội 20/2/2012, Tham khảo kinh nghiệm quốc tế về quản lý thuế

3. Nguyễn Quang Tiến (2012), Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, thực trạng và giải pháp, Tạp chí Tài chính số 3/2012

4. PGS, TS. Lê Xuân Trường(2012), Chống chuyển giá ở Việt Nam: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và các điều kiện thực hiện, Tạp Chí tài chính online, 18/6/2012

5. GS., TS. Ngô Thế Chi, Ngăn ngừa hành vi chuyển giá trong các doanh nghiệp ở Việt Nam góp phần chống thất thu thuế, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Hoạt động chuyển giá - Những vấn đề lý luận, thực tiễn và biện pháp hạn chế, Học viện Tài  chính, tháng 8/2012

6. PGS., TS. Phan Duy Minh, Vấn đề chuyển giá của các công ty đa quốc gia,  Kỷ yếu hội thảo khoa học: Hoạt động chuyển giá - Những vấn đề lý luận, thực tiễn và biện pháp hạn chế, Học viện Tài chính, tháng 8/2012.

7. Kỷ yếu hội thảo Khoa Thuế và Hải quan, Chống gian lận thuế ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội tháng 9/2012

          8. Effective inter - Agency Co-operation in fighting Tax crimes and other financial crimes -http://www.oecd.org.

Yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng

Khách hàng quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, khách hàng có chấp nhận và tiêu dùng sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thu nhập, vì vậy thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng là mục đích của bất kỳ doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp cần nghiên cứu những mong muốn, nhận thức, sở thích, hành vi lựa chọn và mua sắm của khách hàng mục tiêu, từ đó mới có căn cứ để phát triển tính năng sản phẩm, xác định giá cả, các thông tin và các yếu tố khác trong tiêu thụ sản phẩm.

Trên thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng. Trên thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng như yếu tố văn hóa, yếu tố xã hội, yếu tố cá nhân và yếu tố tâm lý của người mua. Trong các yếu tố đó thì yếu tố cá nhân là một yếu tố quan trọng, đặc trưng, ảnh hưởng lớn đến hành vi mua sắm, cụ thể gồm:

1.   Tuổi tác và giai đoạn của chu kỳ sống

Trong mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc đời, con người có nhu cầu về những loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ khi còn nhỏ, con người ăn thức ăn cho trẻ sơ sinh, phần lớn thực phẩm trong nhưng năm lớn lên và trưởng thành và những thức ăn kiêng cữ trong những năm cuối đời.

Vì vậy, các doanh nghiệp cần xác định sản phẩm, dịch vụ của mình phù hợp với đối tượng tiêu dùng nào nhằm xây dựng thị trường mục tiêu của mình. Ví dụ những doanh nghiệp kinh doanh thiết bị chủ yếu của nhà bếp, đồ gỗ căn bản, ôtô, thiết bị trò chơi hai người thì thị trường mục tiêu của họ sẽ là những người trẻ tuổi độc thân. Những doanh nghiệp kinh doanh ôtô, tủ lạnh, bếp, đồ gỗ cần thiết và bền, đi nghỉ… thì thị trượng mục tiêu là các cặp vợ chồng mới cưới chưa có con…

2.   Nghề nghiệp

Cách thức tiêu dùng của con người còn chịu sự chi phối rất lớn bởi nghề nghiệp của họ. Một ca sỹ chuyên biểu diễn trên sân khấu luôn mua sắm quần áo hàng hiệu, độc đáo…, người làm nghề giáo viên lại thường mua quần áo trang nhã, kín đáo… Doanh nghiệp cần cố gắng xác định những nhóm nghề nghiệp có quan tâm trên mức trung bình đến các sản phẩm và dịch vụ của mình. Doanh nghiệp có thể chuyên môn hóa sản phẩm của mình cho những nhóm nghề nghiệp nhất định. Chẳng hạn như các công ty phần mềm máy tính sẽ thiết kế phần mềm máy tính khác nhau cho những người quản lí nhãn hiệu, kỹ sư, luật sư và bác sĩ.

3.  Hoàn cảnh kinh tế

Việc lựa chọn sản phẩm chịu tác động rất lớn từ hoàn cảnh kinh tế của người đó. Hoàn cảnh kinh tế của con người gồm thu nhập có thể chi tiêu được, tiền tiết kiệm và tài sản, nợ, khả năng vay mượn, thái độ đối với việc chi tiêu và tiết kiệm. Một người sẵn sàng mua một sản phẩm đắt nếu người đó có đủ thu nhập, có tiền tiền tiết kiệm hay khả năng mượn và thích tiêu tiền hơn là tiết kiệm. Doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi những xu hướng trong thu nhập cá nhân, số tiền tiết kiệm và lãi suất để tiến hành những biện pháp thiết kế lại, xác định lại vị trí và định giá lại cho sản phẩm của mình để chúng tiếp tục đảm bảo giá trị dành cho các khác hàng mục tiêu.

4.Lối sống

Lối sống của một người là một cách sống trên thế giới của họ được thể hiện ra trong hoạt động, sự quan tâm và ý kiến của người đó. Lối sống miêu tả sinh động toàn diện một con người trong quan hệ với môi trường của mình. Những người cùng xuất thân từ một nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội và cùng nghề nghiệp có thể có những lối sống hoàn toàn khác nhau. Các doanh nghiệp cần tìm kiếm những mối quan hệ giữa sản phẩm của mình và các nhóm theo lối sống, từ đó tiến hành thiết kế sản phẩm, xây dựng chương trình phân phối và xúc tiến phù hợp với lối sống của thị trường mục tiêu của sản phẩm.

5.Nhân cách và ý niệm về bản thân

Mỗi người đều có những đặc điểm tâm lý khác biệt có ảnh hưởng đến hành vi của người đó, dẫn đến những phản ứng tương đối nhất quán và lâu bền với môi trường. Nhân cách thường được mô tả bằng những nét như tự tin có uy lực, tính độc lập, lòng tôn trọng, tính chan hòa, tính kín đáo và tính dễ thích nghi. Nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với các lựa chọn sản phẩm và nhãn hiệu. Doanh nghiệp phải cố gắng xây dựng hình ảnh nhãn hiệu tương xứng với hình ảnh bản thân của thị trường mục tiêu.

Tóm lại, có rất nhiều các yếu tố chi phối đến hành vi của người tiêu dùng, doanh nghiệp phải xác định được khách hàng mục tiêu, những yếu tố tác động đến hành vi mua sắm của họ nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu, đảm bảo thành công trong việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng,

Tài liệu tham khảo:

1.Philip Kotler, Quản trị Marketing

2. TS. Trần Thị Ngọc Trang, Quản trị kênh phân phối

3.  http://www.dantri.com.vn

4.  http://www.baomoi.com.vn

 

Một số bất cập trong việc ghi nhận doanh thu, thu nhập tại Thông tư 123/2012/TT-BTC, Quyết định 15/2006/ QĐ-BTCVà Quyết định 48/2006/ QĐ-BTC

Thông tư số 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 Hướng dẫn thi hành một số điềucủa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Quyết định 15/2006/ QĐ – BTCngày 20tháng 03năm 2006về việc ban hành Chế độ Kế toán doanh nghiệp và Quyết định 48/2006/QĐ – BTCngày 14tháng 09năm 2006về việc ban hành Chế độ Kế toán Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tài chính ban hành có một số bất cập trong việc ghi nhận doanh thu, thu nhập như sau:

Tại điều 7, khoản 1 của thông tư 123/2012/TT - BTC:

(1). Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán theo hướng dẫn tại Chương IV cụ thể:

-Thu nhập từ chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp là thu nhập có được từ chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn của doanh nghiệp đã đầu tư cho một hoặc nhiều tổ chức, cá nhân khác ( bao gồm cả trường hợp bán toàn bộ doanh nghiệp). Thời điểm chuyển nhượng vốn là thời điểm chuyển quyền sở hữu vốn.

Trường hợp doanh nghiệp có chuyển nhượng vốn không nhận bằng tiền mà nhận bằng tài sản, lợi ích vật chất khác (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ...) có phát sinh thu nhập thì phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Giá trị tài sản, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ…được xác định theo giá bán của sản phẩm trên thị trường tại thời điểm nhận tài sản.

- Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán của doanh nghiệp là thu nhập có được từ việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác theo quy định.

Trường hợp Công ty cổ phần tiến hành chia, tách, hợp nhất, sáp nhập mà thực hiện hoán đổi cổ phiếu tại thời điểm chia, tách, hợp nhất, sáp nhập nếu phát sinh thu nhập thì phần thu nhập này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp có chuyển nhượng chứng khoán không nhận bằng tiền mà nhận bằng tài sản, lợi ích vật chất khác (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ...) có phát sinh thu nhập thì phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Giá trị tài sản, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ…được xác định theo giá bán của sản phẩm trên thị trường tại thời điểm nhận tài sản.

          Tại điều 7, khoản 6, khoản 7, khoản 8 của thông tư 123/2012/TT - BTC:

“(6) Thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, phí bảo lãnh tín dụng và các khoản phí khác trong hợp đồng cho vay vốn.

- Trường hợp khoản thu từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn phát sinh cao hơn các khoản chi trả lãi tiền vay theo quy định, sau khi bù trừ phần chênh lệch còn lại tính vào thu nhập khác khi xác định thu nhập chịu thuế.

- Trường hợp khoản thu từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn phát sinh thấp hơn các khoản chi trả lãi tiền vay theo quy định, sau khi bù trừ phần chênh lệch còn lại giảm trừ vào thu nhập  sản xuất kinh doanh chính khi xác định thu nhập chịu thuế.

(7) Thu nhập từ hoạt động bán ngoại tệ: bằng tổng số tiền thu từ bán ngoại tệ trừ (-) tổng giá mua của số lượng ngoại tệ bán ra.

(8)Thu nhập từ chênh lệch tỷ giá, được xác định cụ thể như sau:

Trong năm tính thuế doanh nghiệp có chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ và chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản nợ phải trả có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính, thì:

- Khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến doanh thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp được tính vào chi phí hoặc thu nhập của hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp. Khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ không liên quan trực tiếp đến doanh thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp, nếu phát sinh lỗ chênh lệch tỷ giá tính vào chi phí sản xuất kinh doanh chính, nếu phát sinh lãi chênh lệch tỷ giá tính vào thu nhập khác.

- Lãi chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ cuối năm tài chính được bù trừ với lỗ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản  nợ phải trả bằng ngoại tệ cuối năm tài chính. Sau khi bù trừ nếu còn lãi chênh lệch tỷ giá thì tính vào thu nhập khác, nếu lỗ chênh lệch tỷ giá thì tính vào chi phí sản xuất kinh doanh chính khi xác định thu nhập chịu thuế.

Các khoản chênh lệch tỷ giá nêu trên không bao gồmchênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại số dư cuối năm là: tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển, các khoản nợ phải thu có gốc ngoại tệ.”

Nhưng trong QĐ 15/2006/QĐ-BTC và QĐ 48/2006/QĐ- BTC thì các khoản thu nhập này lại được coi là doanh thu tài chính, dẫn đến trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh  doanh thu hoạt động tài chính được trình bày ở mục 6, mã số 21, thuyết minh VI 26 để xác định lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh mục 6, mã số 30. Còn thu nhập khác lại được trình bày ở mục 11, mã số 31, để xác định lợi nhuận khác ở mục 13, mã số 40.

Copyright © 2013. Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hà Tĩnh Rights Reserved.


Facebook twitter youtube