Làm thế nào để tận dụng tốt cơ hội và vượt qua thách thức của việc toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam?

Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Bản chất khách quan của toàn cầu hóa được quy định bởi tính tất yếu khách quan của quá trình quốc tế hóa. Những phát kiến địa lý, giao thông vận tải đã mở ra cơ hội cho quá trình quốc tế hóa kinh tế vào thế kỷ XV, nhưng tiến trình này chỉ thực sự tăng tốc sau khi cách mạng công nghiệp ở Anh. Quá trình quốc tế hóa mang tính tất yếu khách quan, do đòi hỏi của bản thân nền sản xuất, đặc biệt là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, thế giới đang từng bước tiến vào kinh tế tri thức, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển, đồng thời tạo ra những phương tiện có hiệu quả đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, toàn cầu hóa nền kinh tế không chỉ mang tới những cơ hội, mà nó còn đặt ra những thách thức đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.


            Trước hết, việc toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam:

            Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi trong thị trường xuất nhập khẩuViệt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan , xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hòa của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai. Cùng với sự dần lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta là mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...

         Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp vấn thu hút vốn đầu từ nước ngoài.Chúng ta đã và sẽ tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.Với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Từ đó tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.

          Thứ ba, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp nhận vốn, tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Lao động Việt Nam có cơ hội tham gia sâu rộng vào phân công lao động toàn cầu, tiếp cận với khoa học kĩ thuật tiên tiến, nâng cao trình độ, tăng thu nhập…

          Thứ tư, hội nhập quốc tế (gia nhập WTO) sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao . Thực tế cho thấy vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao (giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN…).

           Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.6. Hội nhập kinh tế thế giới tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển KH&CN trong thời gian tới.Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.

            Bên cạnh đó là một số thử thách khi Việt Nam hội nhập nền kinh tế toàn cầu:

            Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Lấy một thí dụ thực tế như: Nhiều siêu thị lớn do các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư đã mọc lên. các siêu thị này, với tiềm lực tài chính mạnh, mạng lưới cung cấp hàng liên kết toàn cầu, kinh nghiệm kinh doanh cả trăm năm, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và phong phú của người tiêu dùng. Do đó, những cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ hoặc những siêu thị nội phải cạnh tranh khốc liệt để tồn tại, thậm chí bị phá sản vì không thể cạnh tranh với siêu thị ngoại. Sau khi gia nhập WTO Việt Nam có thị trường rộng hơn, cơ hội rộng hơn nhưng thách thức cũng nhiều hơn. Rất nhiều doanh nghiệp đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình. Bởi để có thể xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường khó tình như Nhật Bản , EU… thì yêu cầu được đặt ra rất cao như về chất lượng sản phẩm, giá cả…

            Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp.

            Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập.

            Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tếnói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.

            Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản..

            Một số kiện nghị nhằm tận dụng tốt cơ hội và vượt qua thách thức khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu đối với Việt Nam:

            Thứ nhất, cần tiếp tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và điều hành quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy kinh tế.

            Thứ hai, để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cần áp dụng các chính sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước.

            Thứ ba, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ nhà nước, doanh nghiệp và ngành hàng. Phát huy nội lực, bảo vệ thị trường trong nước, xây dựng chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.

            Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào vòng đàm phán Ðô-ha, tiếp tục thực thi đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, tận dụng tốt những quyền lợi mà thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hòa, thống nhất mối quan hệ giữa cam kết gia nhập WTO với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.

            Thứ năm, thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách an sinh xã hội, giảm khoảng cách giàu - nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

            Thứ sáu, các bộ, ngành và các địa phương cần nâng cao chất lượng nội dung các Chương trình hành động sau khi gia nhập WTO, xác định rõ nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ đề ra; xử lý hài hòa các vấn đề có tính chất liên ngành, liên vùng như chiến lược, quy hoạch phát triển của địa phương, bảo đảm hiệu quả đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường sinh thái, .; xây dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh việc triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và các chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa phương.

            Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, công chức, viên chức, các doanh nhân và người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, với phương châm chủ động, hiệu quả và linh hoạt, phát huy những thành tựu đã đạt được trong hai năm qua, chúng ta tự tin và năng động vượt qua mọi thách thức, phấn đấu giành những thắng lợi mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

            Việt Nam tham gia hội nhập và liên kết quốc tế là một tất yếu khách quan. Việc hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới trong sự nghiệp phát triển của đất nước, đặc biệt trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn, thử thách. Thời đại luôn tiềm ẩn trong nó những thách thức. Để có thể đạt được mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công theo hướng hiên đại vào năm 2020 thì chúng ta phải đương đầu với thách thức, không bỏ lỡ thời cơ của mình. Qua những phân tích về thuận lợi và thách thức khi hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần nghiên cứu đưa ra các biện pháp để làm sao trong thời gian tới có những điều chỉnh phù hợp tận dụng được những thuận lợi mà hội nhập đã tạo ra cho chúng ta, khắc phục những khó khăn mà hội nhập mang lại.